Đây là nội dung luận văn thạc sỹ của Guan Junling, lĩnh vực Trà Học, trường Đại Học Nông Nghiệp Hoa Nam, xoay quanh sự tác động của môi trường khác nhau đến sự chuyển hóa của trà Phổ Nhĩ. Bài nghiên cứu sử dụng 3 mẫu trà giống nhau, để tại môi trường thường ở 3 nơi: Đông Quản (về cơ bản nhiệt độ và độ ẩm cao – ta gọi là kho ẩm), Côn Minh, Mãnh Hải (về cơ bản nhiệt độ và độ ẩm thấp – ta gọi là kho khô).
Em có bổ sung thông tin lượng mưa trung bình và nhiệt độ cao/thấp nhất của 3 nơi để anh chị dễ hình dung hơn. Khí hậu của đa phần các nơi ở miền Bắc Việt Nam được xếp vào kho ẩm, không có lợi cho việc ủ trà Phổ Nhĩ. Muốn ủ trà lâu dài, các anh chị nên tạo kho khô, với sự can thiệp và hỗ trợ của: nhiệt ẩm kế, máy hút ẩm, máy điều hòa không khí, máy lọc không khí.
So sánh nhiệt độ trung bình cao nhất và thấp nhất của các tháng trong năm giữa 3 nơi: Đông Quản, Mãnh Hải, Côn Minh
Đông Quản có nền nhiệt trung bình cao nhất, Côn Minh có nền nhiệt trung bình thấp nhất trong 3 nơi.
Biểu đồ so sánh nhiệt độ cao nhất và thấp nhất
So sánh lượng mưa trung bình các tháng trong năm giữa 3 nơi: Đông Quản, Côn Minh, Mãnh Hải
Lượng mưa ảnh hưởng đến độ ẩm của vùng. Ta thấy lượng mưa của Đông Quản cao nhất, phù hợp với đặc điểm khí hậu độ ẩm cao tại nơi đây.
Biểu đồ so sánh lượng mưa
So sánh nhiệt độ trung bình các tháng trong năm trong vòng 3 năm theo dõi trà (từ 2013-2015)
Từ tháng 12 đến tháng 3 năm tiếp theo, cả 3 nơi đều có nền nhiệt khá thấp, nhiệt độ cao rơi vào tháng 5 đến tháng 9. So sánh nhiệt độ của 3 nơi, ta thấy nhiệt độ của Đông Quản luôn ở mức cao hơn rõ rệt, mức nhiệt trên 25 độ C xuất hiện trong quãng thời gian từ tháng 5 đến tháng 11, kéo dài hơn so với Mãnh Hải và Côn Minh. Côn Minh thì có nền nhiệt toàn năm khá thấp, thời gian nóng ngắn.
So sánh độ ẩm trung bình hàng tháng tại phòng thí nghiệm Mãnh Hải, Đông Quản, Côn Minh trong 3 năm từ 2013-2015
Ta thấy độ ẩm tại Đông Quản khá cao và khá ổn định. Độ ẩm của Mãnh Hải và Côn Minh đạt mức cao nhất vào tháng 6, 7, 8, 9. Kết hợp biểu đồ này và biểu đồ trước nữa, ta có thể đưa ra kết luận: phần lớn thời gian toàn năm, Đông Quản đều ở trong trạng thái nhiệt độ và độ ẩm cao; Mãnh Hải tháng 6, 7, 8, 9 ở vào trạng thái nóng và độ ẩm cao; Côn Minh toàn năm ở trong trạng thái nhiệt thấp và khô ráo.
So sánh hàm lượng chất tan trong nước từ năm 2013-2015
Hàm lượng các chất tan trong nước sẽ ảnh hưởng đến độ đậm đà, hương vị của trà. Có một số trà chúng ta uống cảm thấy “nhạt”, là do “nội hàm” của trà không phong phú, hàm lượng các chất hòa tan trong nước không cao.
Sau 3 năm lưu trữ, hàm lượng các chất tan trong nước đã có sự thay đổi khác nhau ở 3 kho. Sự biến động của trà kho Đông Quản là lớn nhất, đến năm thứ 3 có xu hướng giảm. Trà để tại Mãnh Hải và Côn Minh trong 2 năm đầu có xu hướng giảm, đến năm thứ 3 tăng.
So sánh hàm lượng polyphenol trong trà phổ nhĩ sống từ năm 2013-2015
Polyphenol là thành phần có tính quyết định với phẩm chất của trà, cũng là một thành phần có tác dụng tốt cho sức khỏe, với khả năng khử các chất tự do, chống ô xi hóa (các gốc tự do được sinh ra và tích lũy trong cơ thể là nguyên nhân dẫn đến bệnh tật và làm tăng tốc độ lão hóa của con người).
Theo biểu đồ chúng ta thấy, Polyphenol trong trà tại kho Đông Quản có xu hướng giảm nhanh và giữ ở mức khá thấp. Hàm lượng polyphenol trong trà ở kho Côn Minh giảm với tốc độ chậm và sau 2 năm lưu trữ có chiều hướng tăng mạnh. Polyphenol trong trà ở Mãnh Hải có chiều hướng giảm đạt mức trung bình trong 2 năm đầu, năm thứ 3 có chiều hướng tăng nhưng không tăng mạnh bằng trà ở kho Côn Minh.
So sánh số lượng thành phần mùi hương của phổ nhĩ sống năm 2015 tại 3 kho
So sánh về thành phần mùi hương của trà 3 kho sau 3 năm lưu trữ, ta thấy trong trà Mãnh Hải có 76 thành phần tạo mùi hương, trong trà Đông Quản có 82 thành phần, trong trà Côn Minh có 94 thành phần. Bên cạnh đó, sau quãng thời gian 3 năm lưu trữ, trà ở Mãnh Hải và Côn Minh vẫn giữ mùi trà thuần, có mùi thơm của trà lên men sau thời gian, nhưng trà tại Đông Quản có lẫn một số mùi tạp.