NỘI DUNG ĐƯỢC CHUYỂN DỊCH TỪ CUỐN “DƯƠNG TIỆN MINH SA THỔ” – LƯU NGỌC LÂM.
“Chu sa” mà chúng ta nói đến ngày nay không giống với chu sa thời kỳ Minh Thanh. “Chu sa” thời kỳ Minh Thanh chú trọng vào màu sắc, tức là màu giống như “chu sa”, chứ không phải là loại quặng chu sa. Vào thời Minh Thanh, người ta thường gọi loại ấm tử sa có màu đỏ đậm là “Chu Sa”, còn màu đỏ nhạt thì gọi là “Hải Đường Hồng” (tức những ấm hồng nê bình thường). Cũng tại thời Minh Thanh, loại đất mà có màu sau khi nung giống chu sa được gọi là “đất Thạch Hoàng”, tức Tiểu Hồng Nê bây giờ. “Dương Tiện danh đào lục” cũng đã nói: “Đất Thạch Hoàng có nguồn gốc ở Triệu Trang, là xương đá không tiếp xúc với gió sương, nung xong có màu chu sa”. “Đất Thạch Hoàng” có nguồn gốc từ tầng đất non, như dạng quặng cứng, giống như xương trong đống bùn, nên mới gọi là “xương đá không tiếp xúc với gió sương”. Đây chính là Tiểu Hồng Nê ngày nay, sau khi nung xong có màu “Chu Sa” đỏ tươi.
Ảnh 5-42: Quặng đất chu sa
Ảnh 5-43: Quặng chu sa
Ảnh 5-44: So sánh hiệu quả giữa chu sa và chu nê
Chu Sa theo nghĩa thời đại bây giờ, là một loại đất thuộc chu nê, ngoài màu sắc tương tự ra thì loại này càng chú trọng vào “chất” (sa) hơn. Người trong ngành tử sa thường gọi loại đất chu nê sau khi nung có hạt rõ ràng, chất cát mạnh là “Chu Sa”. Quặng chu sa cũng có nguồn gốc trong phần quặng non, thực chất nó là chu nê trong trạng thái cục quặng cứng do có thời gian phong hóa dài, vì vậy gọi là “quặng trong bùn”. Vẻ bề ngoài trông giống bùn (nê), chất cứng như đá (ảnh 5-42, 5-43), nhưng gặp nước lại rã ra. Phần lớn quặng gốc có màu vàng đất, có một số miếng đất núi lửa, thành ra trong vàng hơi có đỏ, tính kết dính khá tốt. Sau khi nung có màu sắc tươi tắn, hạt rõ rệt, cảm giác cát tốt.
Thành phần khoáng vật của quặng chu sa về cơ bản giống với quặng chu nê, thành phần hóa học hơi khác một chút, chủ yếu gồm: SiO2 55.85%, Al2O3 21.74%, Fe2O3 9.54%, MgO 0.51%, CaO 0.94%, Na2O 0.21%, K2O 1.70%, LOI 0.36%.
Chu Sa và Chu Nê về bản chất cùng thuộc một loại đất, vì thế thành phần khoáng vật về cơ bản là giống nhau. Điều khác nhau là, thời gian phong hóa của chu nê khá ngắn, nên tỷ lệ các chất có tính sét cao, hàm lượng thạch anh thấp, độ co ngót lớn, nhiệt độ nung thấp; chu sa có thời gian phong hóa khá dài, đã từ đất sét biến thành quặng cứng, hàm lượng thạch anh tương đối phong phú, tỷ lệ co ngót nhỏ, nhiệt độ nung cũng cao hơn. Do lượng SiO2 trong chu nê khá thấp, tỷ lệ khoáng vật dạng đất sét nhiều, nên với loại đất có số mục tương đồng, sau khi nung nó sẽ có vẻ bề ngoài mịn màng chặt chẽ, độ thiêu kết cao, bóng đẹp, bề mặt cắt gần với đồ sứ, tính thấu khí hơi kém, còn chu sa thì có bề mặt cắt thô ráp, chất cát mạnh mẽ, tính thấu khí tốt hơn.
Nếu nhìn từ quặng thì chu sa và chu nê có sự khác biệt khá rõ nhưng với tác phẩm sau khi đã nung thì có lúc rất khó phân biệt. Vì chu nê sau khi điều sa cũng có cảm giác giống với chu sa. Khi cho một tỷ lệ nhất định hạt đất chín hoặc chín tái vào chu nê thì tác phẩm sau nung rất giống với chu sa. Cho cát chín tái hoặc chín vào trong chu nê cũng có thể tăng tỷ lệ thành phẩm và nhiệt độ nung. Chu nê có số mục càng nhỏ thì cũng đem lại cảm giác giống chu sa (số mục càng nhỏ thì hạt đất càng to, số mục càng to thì hạt đất càng nhỏ), bởi vậy nhiều khi rất khó phân biệt giữa chu sa thật sự và chu sa điều sa.