Môi trường nung có 2 loại, 1 là đủ ô xi, 2 là hoàn nguyên.
Môi trường đủ ô xi
Là môi trường mà ô xi được cung cấp liên tục, nguyên liệu đốt cháy triệt để và không có khói, người ở Nghi Hưng gọi là “thấu lửa”. Lửa của môi trường đủ ô xi sẽ tồn tại ngắn nhưng nóng và mạnh.
Môi trường hoàn nguyên
Là nung thiếu không khí, nguyên liệu đốt không cháy triệt để, có khói và được gọi là “ủ lửa”. Lửa của môi trường hoàn nguyên sẽ dài nhưng nhiệt độ thấp và không mạnh.
Nếu nói cho chính xác, hai khái niệm “môi trường” và “đặc tính của lửa” có sự khác biệt nhất định. Lửa dùng để chỉ phần phát sáng và tỏa ra hơi nóng khi nguyên liệu đốt cháy; còn môi trường, là chỉ toàn bộ môi trường trong lò được tạo thành bởi việc đốt cháy.
Trong đất tử sa bao gồm các kim loại và các loại ô xít, nó sẽ thể hiện dưới màu sắc khác nhau ở trong những môi trường nung khác nhau.
Nung trong môi trường ô xi hóa, ô xít sắt không hình thành eutectic và không hóa lỏng dưới 1400 độ C. Để có thể thiêu kết cả những loại khoáng vật có điểm nóng chảy thấp, nhiệt độ nung thực tế của ấm tử sa là 1150 độ đến 1180 độ, tốc độ khuếch tán của hình thái các loại khoáng vật không lớn, ô xít sắt cũng không hóa lỏng, nên sản phẩm hầu hết có màu hồng (nhiệt thấp), màu tím hồng (nhiệt cao).
Trong không khí hoàn nguyên, ô xít sắt sẽ hình thành eutectic và hóa lỏng ở nhiệt độ khoảng 1100 độ C, khiến cho sản phẩm từ màu tím hồng biến thành màu đen tím, các khí phóng thích ra lại không thể thoát khỏi bề mặt đã thiêu kết từ trước của sản phẩm, nên dễ bị rộp.
Người ta có thể dùng môi trường đủ ô xi để nung trước khi đạt được nhiệt độ nhất định, sau khi đạt được nhiệt độ nhất định, ta dùng cách nung hoàn nguyên, đến nhiệt độ cần thiết rồi tắt lửa. Khoảng thời gian “ủ lửa” sau nhiệt độ cao sẽ khiến các loại ô xít tạo màu sắc phát sinh hiệu ứng “diêu biến” thiên biến vạn hóa.
Ấm chu sa nung hoàn nguyên