Từ sau khi dùng minh châm làm bóng phôi đất tử sa đến khi bề mặt phôi bốc hơi hết hơi nước và trở nên nhạt màu, cứng lại, cần mất một khoảng thời gian. Trong quãng thời gian này, dùng công cụ để khắc lên bề mặt phôi, gọi là “khắc ướt”, tức là khắc lên trên phôi đất còn ướt.
Khắc ướt có thể chia làm hai loại: khắc bằng dao tre/gỗ hoặc dao kim loại.
Khắc lên bề mặt phôi bằng các công cụ nhọn bằng tre hoặc gỗ, chính là loại “khắc bằng dao trúc” thường được nhắc đến nhiều trong các điển tích. Đặc điểm chính của loại này là đất ở viền sẽ hơi bật lên, nếu nhìn nét khắc thì sẽ vừa thấy cả nét khởi bút, thu bút của mũi dao và thân dao. Dùng dao tre khắc chữ trên bề mặt phôi khô có những đường cong sẽ khiến cho người khắc gặp sức cản khá lớn trong quá trình khắc. Bởi lẽ phôi đất khô khá nhanh trong không khí, độ cứng/mềm của bề mặt phôi thay đổi liên tục, nên không được ngừng tay trong quá trình khắc.
Các tác phẩm gốm có khắc trước năm Quang Tự chủ yếu là khắc ướt, bao gồm các tác phầm khắc của ấm Mạn Sinh, Thiệu Nhị Tuyền, Thiệu Hữu Lan.
Sau khi phôi tử sa cứng lại và nhạt đi mới khắc thì gọi là “khắc khô”
Người chuyên khắc chữ cho tử sa bắt đầu là Thiệu Vân Nho, các tác phẩm để đời của ông chủ yếu là khắc khô. Sau năm Quang Tự, ngoài các loại ấm phỏng theo ấm cổ, lối khắc ướt dần nhạt màu trong nghệ thuật khắc trên tử sa.
P/S: Hiện tại nói đến “khắc trên phôi sống trước nung” là chỉ thủ pháp “khắc khô”, thủ pháp “khắc ướt” gần như đã không còn được sử dụng. Như video bên dưới là khắc khô bằng dao kim loại.